Việt Nam là quốc gia có đường bờ biển dài 3200km, có các vùng biển và thềm lục địa nằm rải rác trên biển Đông từ Bắc tới Nam. Chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng biển và hải đảo được quy định với các chế độ pháp lý khác nhau nhưng quan trọng nhất đó chính là vùng lãnh hải. Vậy lãnh hải là gì? Các quy định ra sao? Hãy theo dõi thông tin dưới đây của ruaxetudong.org.
Lãnh hải là gì?
Lãnh hải là lãnh thổ vùng biển, nằm ngoài nội thủ. Ranh giới ngoài của lãnh hải được coi là đường biên giới của quốc gia trên biển. Theo công ước quốc tế Luật biển 1982, của Liên hợp quốc quy định về chiều rộng lãnh hải của mỗi quốc gia ven biển là 12 hải lý tính từ đường cơ sở.
Quốc gia ven biển có chủ quyền hoàn toàn, đầy đủ trong vùng lãnh hải song không tuyệt đối như nội thủy. Nghĩa là quyền quốc quốc gia ven biển được công nhận ở lãnh thổ của mình về tư pháp, lập pháp và hành pháp, trên các lĩnh vực phòng thủ quốc gia, thuế quan, đánh cá,…Tuy nhiên, các tàu thuyền của nước ngoài vẫn có quyền đi qua vùng lãnh hải của nước ven biển mà không phải xin phép trước nếu không tiến hành bất kỳ hoạt động gây hại nào.
Đối với Việt Nam, vùng lãnh hải có chiều rộng tối đa là 12 hải lý tính từ đường cơ sở ra phía ngoài. Tại các Hiệp định, điều ước quốc tế ký kết với các quốc gia láng giềng thì lãnh hải Việt Nam gồm có:
- Lãnh hải của phần đất liền
- Lãnh hải của các đảo và quần đảo.
Việc xác định bề rộng và ranh giới phía ngoài của lãnh hải sẽ phụ thuộc vào vạch đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải. Đường cơ sở được xác định dựa theo ngấn nước thủy triều thấp nhất. Các đảo ven bờ có thể được chọn làm điểm cơ sở để vạch đường cơ sở lãnh hải. Khi xác định được vị trí vùng lãnh hải sẽ xác định được quyền lợi của quốc gia trong quan hệ quốc tế trên biển theo đúng quy định.
Kinh tuyến, vĩ tuyến là gì – Phân biệt kinh tuyến và vĩ tuyến
Các quy định về vùng lãnh hải
Quy định quốc tế về lãnh hải
Trong hệ thống luật pháp quốc tế về biển, Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (gọi tắt là Công ước Luật Biển 1982) là văn bản pháp lý quốc tế duy nhất được nhiều quốc gia (hiện có 160 quốc gia và Cộng đồng châu Âu tham gia) chấp nhận và vận dụng trong việc tuyên bố vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia mình. Công ước Luật Biển 1982 là cơ sở pháp lý cho việc thương lượng, đàm phán phân định biển giữa các quốc gia có biển với nhau; hoặc, trong tranh tụng trước các tòa án quốc tế về biển.
Công ước Luật Biển 1982 quy định, quốc gia ven biển sẽ có năm vùng biển với phạm vi, quy chế pháp lý khác nhau: vùng nước nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa.
Theo quy định của Công ước Luật Biển 1982, lãnh hải (Mục 2, Điều 3) là vùng biển liền kề với vùng nước nội thủy, có chiều rộng không vượt quá 12 hải lý tính từ đường cơ sở. Ranh giới phía ngoài của lãnh hải chính là biên giới của quốc gia ven biển.
Lãnh hải có chế độ pháp lý tương tự như lãnh thổ trên đất liền. Nghĩa là, quốc gia ven biển sẽ thực hiện chủ quyền hoàn toàn và đầy đủ đối với lãnh hải, được hiểu là vùng trời, vùng nước, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải. Tuy nhiên, chủ quyền dành cho quốc gia ven biển đối với lãnh hải không phải là tuyệt đối, vì tàu thuyền các nước khác được phép “Đi qua không gây hại” trong lãnh hải. Đây là vấn đề mang tính tập quán và được các quốc gia thừa nhận cho việc giao thương, phát triển hàng hải, du lịch…, vì lợi ích của cộng đồng quốc tế nói chung, quốc gia ven biển nói riêng. Việc “Đi qua không gây hại” là không được gây tổn hại đến hòa bình, an ninh trật tự hoặc những lợi ích chính đáng khác của quốc gia ven biển và phải tuân theo quy định chi tiết trong Mục 3, Điều 19 của Công ước. Các quốc gia ven biển có quyền ấn định, phù hợp với Công ước Luật Biển 1982 các tuyến đường hàng hải, quy định việc phân chia luồng giao thông trên biển dành cho tàu nước ngoài khi đi qua lãnh hải nước mình. Trường hợp có sự vi phạm, quốc gia ven biển có quyền tạm thời đình chỉ việc “Đi qua không gây hại”, nhằm bảo đảm chủ quyền, an ninh và lợi ích quốc gia của mình.
Việt Nam là một trong số những quốc gia đầu tiên ở Đông Nam Á phê chuẩn Công ước Luật Biển 1982 (ngày 23-6-1994). Theo quy định của Công ước, Việt Nam cũng có năm vùng biển như đã nói ở trên, với diện tích gần 1 triệu km2 và trên 3.000 hòn đảo lớn nhỏ; đặc biệt là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, mà đã từ lâu trong lịch sử chúng ta đã khám phá, quản lý và thực hiện chủ quyền liên tục.
Quy định của Việt Nam về vùng lãnh hải
Quy định về vùng lãnh hải được thể hiện qua văn bản pháp luật biển Việt Nam
Điều 11 Luật Biển Việt Nam (2012) khẳng định “Lãnh hải là vùng biển có chiều rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở ra phía biển. Ranh giới ngoài của lãnh hải là biên giới quốc gia trên biển của Việt Nam”.
Điều 12 Luật Biển Việt Nam cũng quy định rõ chế độ pháp lý lãnh hải Việt Nam như sau:
- Nhà nước thực hiện chủ quyền đầy đủ và toàn vẹn đối với lãnh hải và vùng trời, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải phù hợp với Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982.
- Tàu thuyền của tất cả các quốc gia được hưởng quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam. Đối với tàu quân sự nước ngoài khi thực hiện quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam, thông báo trước cho cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.
- Việc đi qua không gây hại của tàu thuyền nước ngoài phải được thực hiện trên cơ sở tôn trọng hòa bình, độc lập, chủ quyền, pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam là thành viên.
- Các phương tiện bay nước ngoài không được vào vùng trời ở trên lãnh hải Việt Nam, trừ trường hợp được sự đồng ý của Chính phủ Việt Nam hoặc thực hiện theo điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
- Nhà nước có chủ quyền đối với mọi loại hiện vật khảo cổ, lịch sử trong lãnh hải Việt Nam.
Với các nội dung thông tin trong bài viết trên đây về “Lãnh hải, vùng lãnh hải là gì – Các quy định về vùng lãnh hải” hy vọng sẽ giúp ích bạn. Nếu có bất kỳ câu hỏi nào cần được giải đáp, hãy liên hệ với chúng tôi để được hỗ trợ.